HPV/ORAL CANCER FACTS

SƠ LƯỢC VỀ UNG THƯ MIỆNG DO VIRUS U NHÚ NGƯỜI (HUMAN PAPILLOMA VIRUS)

Ung thư miệng và hầu họng (khẩu hầu) do HPV (HPV oral and oropharyngeal cancers) khó phát hiện hơn các loại ung thư liên quan đến thuốc lá (tobacco related cancers) vì các triệu chứng (symptom) không phải lúc nào cũng rõ ràng đối với những người đang phát triển bệnh hoặc đối với các chuyên gia khi tầm soát bệnh này. Chúng có thể khó nhận biết và không đau (painless). Bác sĩ nha khoa (dentist) hoặc bác sĩ (doctor) cần đánh giá tất cả triệu chứng đã tồn tại trên hai tuần làm bệnh nhân lo lắng. Mặc dù có nhiều thiết bị và xét nghiệm sàng lọc ung thư miệng bổ trợ (adjunctive oral cancer screening devices and tests), nhưng hiện tại không có xét nghiệm nào có thể phát hiện sớm ung thư miệng và hầu họng dương tính với HPV (HPV positive oral and oropharyngeal cancers). Hiện có các xét nghiệm nhiễm trùng HPV vùng miệng (oral HPV infection tests) trên thị trường nha khoa. Mặc dù các xét nghiệm này phát hiện tới 26 triệu người Mỹ bị nhiễm trùng HPV vùng miệng (nghiên cứu của NHANES, đang diễn ra), điều này không đồng nghĩa với việc người đó sẽ mắc ung thư miệng/hầu họng. Thực tế, chỉ khoảng 1% cá thể phát triển nhiễm trùng HPV miệng loại nguy hiểm cao tiến triển thành ung thư và thường xảy ra hàng chục năm sau nhiễm trùng, vì vậy tính hữu dụng của xét nghiệm trong việc cung cấp thông tin có ý nghĩa và thực thi được rất đáng nghi ngờ. Ngày nay, cách tốt nhất để sàng lọc ung thư miệng và hầu họng liên quan đến HPV là thông qua khám bằng nhìn và sờ (thị chẩn và ấn chẩn) do một chuyên gia y tế hoặc nha khoa thực hiện, họ cũng sẽ hỏi bệnh sử răng miệng để biết về các dấu chứng và triệu chứng bao gồm những thứ không nhìn và sờ thấy được.

SỰ THẬT HPV

  • HPV (human papilloma virus) là loại vi-rút lây truyền qua đường tình dục và nhiễm trùng phổ biến nhất ở Hoa Kỳ.
  • Có gần 200 chủng HPV (strains of HPV), hầu hết đều vô hại và không gây ung thư. Trong số này, 9 loại được biết là gây ung thư và 6 loại khác bị nghi ngờ gây ung thư vì chúng thường được tìm thấy cùng với một trong 9 loại gây ung thư. Trong ung thư miệng, chủ yếu liên quan đến HPV 16, cũng liên quan đến ung thư cổ tử cung, hậu môn và dương vật (cervical, anal and penile cancers) bên cạnh ung thư hầu họng.
  • Có thể bị nhiễm HPV mà không hề hay biết vì vi-rút này thường không tạo ra dấu chứng (sign) hoặc triệu chứng nào có thể nhận thấy được.
  • Mỗi ngày ở Hoa Kỳ có khoảng 12.000 người từ 15 đến 24 tuổi bị nhiễm HPV. Theo dữ liệu từ nghiên cứu NHANES đang diễn ra, khoảng 26 triệu người Mỹ bị nhiễm HPV ở miệng. Trong số đó có khoảng 2.600 là HPV 16. Đại đa số cá nhân sẽ loại bỏ vi-rút một cách tự nhiên thông qua phản ứng miễn dịch của chính họ và không bao giờ biết rằng họ đã tiếp xúc hoặc mắc phải vi-rút.
  • Nếu xét nghiệm dương tính với vi-rút, không có cách nào chắc chắn để biết bị nhiễm vi-rút khi nào hoặc ai đã truyền vi-rút. Một người có thể nhiễm HPV trong nhiều năm, thậm chí nhiều chục năm trước khi được phát hiện hoặc phát triển thành một bệnh nghiêm trọng như ung thư. Ở đa số những người bị nhiễm bệnh, ngay cả với chủng HPV nguy cơ cao được biết là gây ung thư, chúng sẽ không phát triển thành ung thư.
  • Xét nghiệm dương tính với nhiễm trùng HPV không có nghĩa là bạn hoặc đối tác của bạn đang quan hệ tình dục ngoài mối quan hệ của bạn. HPV được cho là có thời gian bất hoạt (inactivity) hoặc ngủ đông (dormancy) kéo dài đến vài chục năm; trong những giai đoạn này, kết quả xét nghiệm HPV sẽ âm tính.
  • Những người bạn tình đã ở bên nhau một thời gian có xu hướng chia sẻ tất cả bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (sexual infections). Thông thường, nếu một đối tác bị nhiễm nấm như Candida, thì người kia cũng bị nhiễm nấm đó, mặc dù họ có thể không có triệu chứng. Điều này cũng tương tự với các bệnh nhiễm trùng tình dục phổ biến khác như Chlamydia, một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn. Nhiễm virus HPV cũng thường được chia sẻ. Điều này có nghĩa là đối tác của người được xác định dương tính với HPV có khả năng đã mắc phải HPV từ trước, mặc dù họ có thể không có dấu chứng hoặc triệu chứng. Giống như hầu hết người Mỹ, hệ thống miễn dịch của họ thường sẽ loại bỏ nó trong vòng chưa đầy 2 năm.
  • Bao cao su (condom) có thể làm giảm khả năng mắc bệnh hoặc truyền vi-rút cho bạn tình nếu được sử dụng mọi lúc và đúng cách. Tuy nhiên, HPV có thể lây nhiễm sang những khu vực mà bao cao su không bao phủ được. Vì vậy, bao cao su có thể không bảo vệ hoàn toàn khỏi HPV.
  • Vì tính chất phổ biến của nó, CDC (Tổ chức Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh) nói rằng hơn 80% người Mỹ sẽ bị nhiễm vi-rút HPV trong đời. Đối với hầu hết chúng ta, điều này xảy ra muộn ở tuổi thiếu niên và đôi mươi khi hoạt động tình dục của chúng ta cao nhất và số lượng bạn tình có thể là nhiều nhất.

HPV VÀ UNG THƯ MIỆNG

  • HPV là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư hầu họng; chủ yếu là amidan (tonsils), hốc amidan (tonsillar crypt), đáy lưỡi (the base of the tongue), và một số rất nhỏ ở phía trước miệng, ung thư khoang miệng. HPV16 là chủng phổ biến nhất và ảnh hưởng đến cả nam và nữ.
  • Nam giới mắc ung thư thư hầu họng nhiều hơn nữ giới. Lý do đã được làm sáng tỏ và tiết lộ trong một nghiên cứu do Gillison và cộng sự công bố. Thông qua quan hệ tình dục thông thường, phụ nữ bị nhiễm bệnh sớm trong các trải nghiệm tình dục của họ và nhanh chóng chuyển đổi huyết thanh (seroconvert) nhiễm trùng đó thành một kháng thể toàn thân bảo vệ (systemic protective antibody) họ suốt đời. Nam giới có nhiều bạn tình hơn để chuyển đổi huyết thanh nhiễm trùng thành kháng thể bảo vệ cơ thể. Số lượng bạn tình và sự phơi nhiễm (exposure) tăng lên trước khi phát triển kháng thể bảo vệ chống lại vi rút xâm nhập rất có thể là lý do khiến nhiều nam giới sau này phát triển ung thư hầu họng nhiều hơn nữ giới.
  • Trong các thông điệp công khai để đơn giản hoá, OCF (Tổ Chức Ung Thư Miệng) thường nói về ung thư miệng nói chung. Về mặt khoa học, điều này thực sự được chia thành khoang miệng (oral cavity) và hầu họng (oropharynx); hai vị trí giải phẫu riêng biệt mặc dù chúng là một không gian liên tục. Mỗi vị trí giải phẫu có số liệu thống kê, nhiễm trùng, nguyên nhân bệnh khác nhau chiếm ưu thế ở vị trí đó và kết quả điều trị cũng khác nhau ở mỗi vị trí. Nhóm người mắc ung thư miệng và hầu họng phát triển nhanh nhất là những người khỏe mạnh, không hút thuốc trong độ tuổi 35-55. Khi bạn xem xét cả hai vị trí giải phẫu, sự phát triển chủ yếu là ở ung thư dương tính với HPV ở hầu họng.
  • Đàn ông da trắng, không hút thuốc tuổi từ 35 đến 55 có nguy cơ cao nhất, tỷ lệ này cao hơn phụ nữ 4:1.
  • Trong môi trường miệng/hầu họng, HPV16 biểu hiện chủ yếu ở các vùng phía sau (hầu họng) như đáy lưỡi, thành sau họng, amidan, hốc amidan và trụ amidan.

CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ

  • Số lượng bạn tình (sexual partners) - Số lượng bạn tình càng nhiều thì càng có nhiều khả năng bị nhiễm HPV sinh dục; và khi quan hệ tình dục bằng miệng (oral sex), điều này cũng đúng đối với các bệnh nhiễm trùng vùng miệng (oral infection). Quan hệ tình dục với bạn tình đã có nhiều đối tác tình dục (multiple sex partners) cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
  • Hệ miễn dịch suy yếu (weakened immune systems) - Những người có hệ miễn dịch suy yếu có nguy cơ nhiễm HPV cao hơn. Hệ miễn dịch có thể bị suy yếu do HIV/AIDS hoặc do thuốc ức chế hệ miễn dịch (immune system-suppressing drugs) được sử dụng sau khi cấy ghép cơ quan (organ transplant).

DẤU CHỨNG VÀ TRIỆU CHỨNG CỦA UNG THƯ MIỆNG

Danh sách này xem xét cho cả ung thư miệng do HPV, do thuốc lá và rượu.

  • Vết loét (ulcer) không lành trong vòng 2-3 tuần
  • Mô mềm trong miệng (soft tissues in the mouth) chuyển sang màu đỏ, trắng hay đen
  • Khó nuốt hoặc đau khi nuốt (painful swallowing). Cảm giác có vật gì đó đang mắc kẹt trong cổ họng khi nuốt
  • Amidan sưng nhưng không đau (swelling, painless tonsil). Khi khám trong miệng, amidan hai bên nên cân đối về kích thước.
  • Đau khi nhai
  • Đau họng dai dẳng hoặc khàn giọng (hoarse voice)
  • Sưng hoặc khối gồ (lump) trong miệng
  • Khối u không đau sờ được ở bên ngoài cổ, đã ở đó ít nhất hai tuần.
  • Cảm giác tê (numb feeling) trong miệng hoặc môi
  • Ho kéo dài (constant coughing)
  • Đau tai một bên kéo dài hơn vài ngày

NGƯỜI TA BỊ NHIỄM HPV NHƯ THẾ NÀO?

  • HPV lây truyền qua tiếp xúc da với da vùng sinh dục, thường xuyên nhất là khi quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn và miệng (vaginal, anal and oral sex).
  • Có nhiều bạn tình hoặc bạn tình đã có nhiều đối tác tình dục sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm HPV.
  • Nhiều người không có triệu chứng và không biết rằng họ bị nhiễm HPV. Họ sẽ không hề hay biết khi các phản ứng miễn dịch tự nhiên trong cơ thể loại bỏ HPV.
  • Vi-rút có thể bất hoạt trong nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm sau khi nhiễm vi-rút.

NHỮNG THÔNG TIN NÀY CÓ Ý NGHĨA GÌ ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ?

Các đối tác tình dục thường chia sẻ HPV. Một người đã quan hệ với bạn tình trong một thời gian dài, rất có thể đã nhiễm HPV. Mặc dù HPV là bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất, nhưng ở hầu hết mọi người, nó sẽ bị hệ thống miễn dịch loại bỏ trong vòng 2 năm. Những người bị nhiễm trùng dai dẳng có nguy cơ mắc một số loại ung thư tùy thuộc vào vị trí nhiễm trùng. Khi xem xét toàn bộ dân số Hoa Kỳ với hơn 300 triệu người, tỷ lệ mắc ung thư miệng từ HPV vẫn còn tương đối hiếm về mặt xác suất thống kê, mặc dù các phương tiện truyền thông thường thích tuyên bố rằng đây là một dịch bệnh. Về ung thư miệng và hầu họng (trong năm 2017 có khoảng 50.000 người Mỹ mắc bệnh), sự gia tăng nhanh chóng của chúng chắc chắn là đáng báo động. Biểu đồ xu hướng phát triển kể từ đầu những năm 1970 là một đường dốc đi lên. Với việc sử dụng vắc-xin HPV đúng cách trong giới trẻ, chúng ta sẽ thấy được một xu hướng ngược lại trong các thế hệ tương lai.

HPV PHỔ BIẾN NHƯ THẾ NÀO?

HPV là bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất. CDC (Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh) ước tính rằng có 6,2 triệu ca nhiễm mới mỗi năm tại Hoa Kỳ. Đại đa số người Mỹ sẽ sớm nhiễm một số dạng HPV khi quan hệ tình dục. Vì nó rất phổ biến nên không có gì phải xấu hổ cả. Nếu bạn được chẩn đoán nhiễm HPV, hãy trao đổi với nhân viên y tế về điều đó. HPV được chia thành 9 loại có nguy cơ cao và hơn 150 loại khác gây ra mụn cóc lành tính (benign warts) hoặc không gây tác hại gì cả.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ BIẾT BỊ NHIỄM HPV?

Cách duy nhất để biết có bị nhiễm vi rút HPV hay không là xét nghiệm vi rút tại cơ sở y tế. Đối với phụ nữ, khi khám cổ tử cung, có thể thực hiện trực tiếp cùng với xét nghiệm phết cổ tử cung (Pap test) hoặc bằng cách phết bổ sung tại thời điểm xét nghiệm Pap. CDC khuyến cáo xét nghiệm HPV cho phụ nữ cùng với xét nghiệm Pap như một quy trình thường quy. Xét nghiệm HPV đường miệng (oral HPV tests) ở cả nam và nữ đều có vấn đề. Mặc dù đã có một số xét nghiệm thương mại hiện có trong cộng đồng nha khoa, nhưng giá trị của xét nghiệm này không rõ ràng và xét nghiệm dương tính vào bất kỳ ngày nào đối với vi-rút HPV ở miệng không chứng minh được sự tồn tại của nhiễm trùng, đó là điều cần hiểu rõ. Không có dấu chứng vùng miệng có thể nhìn thấy được của nhiễm trùng HPV. Không có thuốc diệt vi-rut (virucide) hoặc các loại thuốc khác để tiêu diệt nó. Cũng không có xét nghiệm sinh dục (genital tests) nào được thiết lập cho nam giới. Có các xét nghiệm chải tế bào hậu môn (anal brush cytology tests) cho những người quan hệ tình dục qua đường hậu môn. Những xét nghiệm này có thể dự báo sớm về ung thư hậu môn (anal cancer) do HPV gây ra.

CÓ CÁCH CHỮA KHỎI HPV KHÔNG?

Không có phương pháp chữa trị cho vi-rút. Hầu hết thời gian, HPV sẽ tự biến mất trong vòng hai năm và không gây ra các vấn đề về sức khỏe. Chỉ khi HPV tồn tại trong cơ thể trong nhiều năm, thường là hàng thập kỷ, nó mới có thể gây ra các bệnh ung thư miệng. Thậm chí sau đó, có một số rất ít người sẽ bị nhiễm HPV dẫn đến ung thư miệng, mặc dù con số này đang tăng lên khoảng 10% mỗi năm. Người ta không biết tại sao hầu hết các trường hợp HPV biến mất, nhưng không phải tất cả trường hợp. Vì những lý do không rõ, có một tỷ lệ nhỏ dân số có hệ miễn dịch không nhận ra đây là mối đe dọa và cho phép HPV phát triển. Mặc dù HPV có thể làm tăng nguy cơ phát triển một số loại ung thư, nhưng hầu hết những người nhiễm HPV KHÔNG phát triển ung thư.

VACCINE HPV

Hai loại vaccine được biết đến là Gardasil và Cervarix bảo vệ chống lại các chủng HPV gây ung thư cổ tử cung (HPV16 và 18). Gardasil cũng bảo vệ chống lại các chủng khác gây ra mụn cóc ở bộ phận sinh dục (HPV6 và 11). Một phiên bản mới của vaccine Gardasil bảo vệ chống lại 9 chủng HPV. Hàng triệu phụ nữ trẻ ở Mỹ và các nước phát triển trên thế giới đã được tiêm vaccine HPV an toàn. Bởi vì các thử nghiệm lâm sàng (clinical trial) ban đầu chỉ được thực hiện trên bệnh ung thư cổ tử cung, FDA (Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ) hạn chế các nhà sản xuất nói về các tác dụng tích cực tiềm năng khác của các vaccine này ở các vị trí khác của cơ thể mà HPV có thể xâm nhập. Vì các vaccine này ngăn chặn người ta không bao giờ mắc HPV16, nó không phải là một bước nhảy vọt về mặt khoa học khi ngoại suy điều đó thành "nếu bạn không thể nhiễm vi-rút, bạn sẽ không thể mắc phải những thứ mà vi-rút có thể gây ra". Sử dụng logic này, nhiều người trong cộng đồng khoa học, bao gồm CDC và mọi trung tâm điều trị ung thư lớn ở Hoa Kỳ, khuyến cáo tiêm vaccine để bảo vệ mọi người khỏi các loại ung thư khác nhau liên quan đến vi-rút, chẳng hạn như ung thư hầu họng và hậu môn. Tổ chức này cũng tin rằng điều này rất đáng được thực hiện và đã ủng hộ CDC tiêm phòng cho các bé trai (cuối cùng đã được họ chấp thuận để các bác sĩ nhi khoa và các bác sĩ làm như vậy), không chỉ giúp nhanh chóng đạt được điểm “miễn dịch cộng đồng” (herd community) trong đất nước của chúng ta; bảo vệ thế hệ tiếp theo của chúng ta khỏi ung thư cổ tử cung do HPV gây ra, mà còn bảo vệ khỏi các bệnh ung thư do HPV khác bao gồm cả ung thư hầu họng.

Ủy ban Cố vấn Quốc gia về Thực hành Tiêm chủng (The National Advisory Committee on Immunization Practices) khuyến cáo tiêm vaccine HPV định kỳ cho các bé gái và bé trai từ 11 đến 12 tuổi, cũng như các cá nhân từ 13 đến 26 tuổi nếu họ chưa tiêm vaccine. Mặc dù không phải là một phần của sự chấp thuận sử dụng ban đầu, nhưng ngày nay vaccine Gardasil cũng đã được chấp thuận sử dụng cho nam giới từ 9 đến 45 tuổi. Giá trị của việc tiêm chủng ở giai đoạn sau của cuộc đời/ ở tuổi già có thể cao hơn ở những người có số lượng bạn tình hạn chế trong đời so với những người khác. Những vaccine này có hiệu quả nhất nếu được tiêm cho trẻ em trước khi chúng hoạt động tình dục. Nếu bạn đã tiếp xúc với một chủng cụ thể của HPV, thì vaccine sẽ không có tác dụng ngăn ngừa các vấn đề từ chủng đó, tuy nhiên nếu bạn có ít bạn tình thì có khả năng bạn vẫn chưa tiếp xúc với một trong các chủng của HPV mà vaccine bao phủ. Vì vậy, nên tiêm phòng ở độ tuổi trước khi quan hệ tình dục để mang lại hiệu quả bảo vệ cao nhất.

BIÊN DỊCH VIÊN

Duc Quoc 

TÀI LIỆU BIÊN DỊCH

https://oralcancerfoundation.org/understanding/hpv/hpv-oral-cancer-facts/

https://velscope.com/talk-hpv/


Nhận xét

Bài đăng phổ biến