SPECTRUM OF LIP LESIONS IN AN EPIDEMIOLOGICAL STUDY OF 3009 INDIAN PATIENTS
CÁC TỔN THƯƠNG VÙNG MÔI TRONG MỘT NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ TRÊN 3009 BỆNH NHÂN NGƯỜI ẤN
GIỚI THIỆU
Môi (lips) rất dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động của môi trường, chẳng hạn như gió, nắng, khói thuốc và nhiệt độ khắc nghiệt, do chức năng hàng rào bảo vệ da kém và khả năng giữ nước thấp. Các nghiên cứu sàng lọc dựa trên dân số quy mô lớn đã xác định các tổn thương môi là các tổn thương niêm mạc miệng phổ biến nhất. Nghiên cứu hiện tại nhằm mục đích làm nổi bật sự đa dạng của các tổn thương môi và xác định tỷ lệ mắc của chúng trong một quần thể Ấn Độ.
KẾT QUẢ
Trong số 3009 bệnh nhân được kiểm tra, 495 (16,5%) bị tổn thương môi, trong đó 257 được sinh thiết để xác định nguyên nhân.
Độ tuổi của bệnh nhân dao động từ 4 đến 85 tuổi, với độ tuổi trung bình là 39,7 tuổi. Có 309 (62,4%) nam và 185 (31,9%) nữ. Môi dưới (lower lip) là vùng bị ảnh hưởng nhiều nhất (54,1%) tiếp theo là khóe miệng (corner of mouth) (30,9%) và môi trên (upper lip) (11,7%). Trong 3,2% trường hợp, cả hai môi đều bị ảnh hưởng.
Trong số 495 tổn thương môi (lip lesion), phổ biến nhất là các rối loạn tiềm năng ác tính (potentially malignant disorders, PMD) (37,4%) và herpes môi (labial labialis) (33,7%), tiếp theo là nang nhầy/nang niêm dịch (mucocele) (6,7%), viêm khóe môi (angular cheilitis) (6,1%), tổn thương dị ứng và miễn dịch (allergic and immunologic lesions) (5,7%), u sợi chấn thương (traumatic fibroma) (2%), khối u (neoplasm) (1,8%), nhiễm sắc tố (pigmentation) (0,8%), tổn thương phát triển (0,6%), chấn thương do nhiệt và hóa chất (thermal and chemical injury) (0,4%) và các tổn thương khác (1%).
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu hiện tại, PMD được phát hiện là bệnh lý môi phổ biến nhất, với tỷ lệ mắc bệnh là 37,4%, cao hơn đáng kể so với tỷ lệ được báo cáo ở người Mỹ da trắng (31,4%) và người Ấn Độ (20,6%). Nghiên cứu này cho thấy bạch sản (leukoplakia) [Hình 1a và b], xơ hóa niêm mạc miệng (oral submucous fibrosis, OSMF), tăng sản mụn cóc (verrucous hyperplasia) [Hình 1c và d] và sừng hóa do xỉa thuốc lá (tobacco pouch keratosis) phổ biến hơn ở nam giới trong khi lichen phẳng vùng miệng (oral lichen planus, OLP) [Hình 1e và f] phổ biến hơn ở nữ giới. Cảm giác nóng rát và không thể mở miệng ở mức bình thường là dấu chứng phổ biến nhất liên quan đến OLP và OSMF.
Về mặt lâm sàng, bạch sản và OLP đôi khi có thể giống nhau. Bạch sản là tổn thương liên quan đến thuốc lá, biểu hiện lâm sàng là mảng trắng không cạo tróc, trong khi OLP là bệnh tự miễn, niêm mạc-da với biểu hiện lâm sàng là sọc trắng, sẩn, mảng hoặc chợt loét. Các nghiên cứu dựa trên dân số trên toàn cầu đã chỉ ra rằng bạch sản có tỷ lệ chuyển dạng ác tính tương đối cao do có mối tương quan mạnh với việc sử dụng thuốc lá và rượu. Trong nghiên cứu hiện tại, tỷ lệ sử dụng thuốc lá không khói cao hơn so với thuốc lá hút.
Nhiễm trùng (infection) (34,7%) được phát hiện là bệnh lý môi phổ biến thứ hai trong nghiên cứu hiện tại. Herpes môi (33,7%) [Hình 2a] với ưu thế ở phụ nữ (53,9%) biểu hiện bằng sự phân bố một bên (87%) các mụn nước vỡ và loét (ruptured and ulcerated vesicles). Ở người Mỹ da trắng, tỷ lệ mắc bệnh herpes môi là 8,5% đã được báo cáo. Herpes Zoster [Hình 2b], một bệnh mụn nước ở da, đau, khu trú, đã phát hiện ở hai bệnh nhân. Nhiễm nấm Candida miệng (oral candidiasis), nhiễm nấm miệng phổ biến nhất, phát hiện ở 3 trường hợp, có tiền sử hen suyễn (asthma) và bệnh lao (tuberculosis), do đó gợi ý nguyên nhân tiềm ẩn gây ra bệnh nhiễm trùng.
Ở môi, phát hiện thấy loét apthous tái phát (recurrent aphthous ulcers, RAU) [Hình 2c] và viêm khoé miệng (angular cheilitis) với tỷ lệ mắc lần lượt là 3,8% và 6,1%. Trong số người Mỹ da trắng, tỷ lệ mắc là 6,3% đối với viêm khoé miệng. Ở những bệnh nhân này, nhiều nguyên nhân gây viêm khoé miệng có thể là do thiếu máu do thiếu sắt (iron deficiency anemia), giảm kích thước dọc (reduced vertical dimensions), ứ đọng nước bọt ở khóe miệng và ức chế miễn dịch. RAU là một trong những bệnh lý niêm mạc miệng phổ biến nhất do nhiều tác nhân gây bệnh gây ra, chủ yếu là do căng thẳng. Hai trường hợp được chẩn đoán mắc hội chứng Behcet [Hình 2d], bệnh viêm mạn tính đa hệ thống (multisystemic chronic inflammatory disease) đặc trưng bởi loét miệng và sinh dục tái phát, cùng các biểu hiện khác đã được đưa vào nghiên cứu hiện tại.
Các bệnh mụn nước ở miệng có thể do miễn dịch, do vi-rút, do thuốc, do di truyền hoặc do chấn thương và có thể xảy ra độc lập hoặc xảy ra trước khi có tổn thương da. Nghiên cứu báo cáo 4 trường hợp hồng ban đa dạng (erythema multiforme, EM) và một trường hợp pemphigus thông thường xảy ra ở khoang miệng mà không liên quan đến da. Các tổn thương hình bia đặc trưng và phù nề môi đã được nhìn thấy ở EM.
Ntomouchtsis và cộng sự đã báo cáo 27,6% tổn thương môi lành tính ở bệnh nhân Hy Lạp, bao gồm sừng hóa do ánh nắng (actinic keratosis), u máu (hemangioma), u hạt sinh mủ (pyogenic granuloma) và nang nhầy là một khối u lành tính (benign neoplasm). Các nhà nghiên cứu đã đưa nhiều tổn thương khác nhau vào danh mục khối u lành tính ở miệng nhưng không phải là tổn thương lành tính thực sự, khiến cho việc nghiên cứu so sánh trở nên khó khăn. Trong nghiên cứu hiện tại, 1% các trường hợp (n = 5) ở môi là khối u lành tính, bao gồm 3 khối u sợi thần kinh, bao gồm một trường hợp chứng u sợi thần kinh [Hình 3a và b] và một trường hợp u thần kinh đệm (neurilemmona) [Hình 3c và d] và u nhú (papilloma). Các nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ mắc u nhú ở môi lần lượt là 3,4% và 7,9% ở bệnh nhân người Hy Lạp và người Mỹ da trắng.
Tăng sinh mô xơ khu trú (localized fibrous tissue overgrowth) rất phổ biến ở niêm mạc miệng do kích ứng liên tục, phần lớn là tăng sản sợi (fibrous hyperplasia). Nghiên cứu đã tìm thấy 13 trường hợp tăng sản sợi, không được coi là u sợi thực sự và do đó được đưa vào loại tổn thương do chấn thương.
Nghiên cứu ghi nhận một trường hợp u hạt sinh mủ (pyogenic granuloma) [Hình 3e và f] ở môi dưới. Nang nhầy [Hình 4a và b] (33/495, 6,7%) là di chứng phổ biến nhất của việc cắn môi (lip biting) với tỷ lệ mắc là 94% ở môi dưới. Các nghiên cứu khác đã báo cáo tỷ lệ mắc là 4,7%, 7,1% và 29,8%.
Nhận xét